Giống như những người Anh khác bị bệnh lao phổi ở thế kỷ mười chín, Ngài Edward Burnett Tylor1 nghe theo lời khuyên bác sĩ đi đến những vùng đất ấm áp và khô ráo hơn. Xuất thân từ một gia đình kinh doanh giàu có thuộc hội Quaker2, Tylor có dư dả tiền bạc cho một chuyến đi dài. Năm 1855, khi mới ở tuổi đôi mươi, Tylor khởi hành đi Tân Thế giới, và sau khi kết bạn với một nhà khảo cổ học Quaker mà ông gặp trong chuyến đi, ông rong ruổi trên lưng ngựa qua khắp đồng quê Mexico, viếng thăm những di tích còn sót lại của vương triều Aztec và những pueblos (khu dân cư) bụi bặm. Tylor hoàn toàn ấn tượng trước thứ mà ông gọi là “bằng chứng của một quần thể cổ đại khổng lồ.” Kỳ nghỉ ngắn này ở Mexico đã thắp lên trong ông đam mê nghiên cứu về những xã hội xa xăm, cả cổ đại và hiện đại, trong suốt quãng đời còn lại. Năm 1871, ông xuất bản kiệt tác của mình, Primitive Culture (tạm dịch: Văn hóa nguyên thủy), có thể được coi là công trình đầu tiên của ngành nhân chủng học hiện đại.
Ở một vài khía cạnh, Văn hóa nguyên thủy “bút chiến” với một quyển sách khác cũng có từ “văn hóa” trong nhan đề: Culture and Anarchy (tạm dịch: Văn hóa và hỗn loạn) của Matthew Arnold3, xuất hiện chỉ trước cuốn sách của Tylor hai năm. Đối với Arnold, văn hóa là “cuộc truy cầu sự hoàn hảo của chúng ta thông qua việc hiểu biết những vấn đề khiến chúng ta bận tâm nhất, những vấn đề được suy nghĩ và bàn luận nhiều nhất trên thế giới.” Arnold không húng thú với những điều quá hạn hẹp như những thú vui sành điệu bị bó hẹp trong phạm vi giai cấp: ông giữ vững một lý tưởng về thẩm mỹ và đạo đức, là nền móng cho cách biểu đạt của ông trong nghệ thuật, văn chương, âm nhạc, và triết học.
Nhưng Tylor nghĩ rằng “văn hóa” còn có thể mang một ý nghĩa khác, và một phần bởi hoàn cảnh của mình, ông nghĩ như vậy. Tylor được bổ nhiệm để lãnh đạo Bảo tàng Đại học ở Oxford, và sau đó, năm 1896, là chủ tịch ngành nhân chủng học đầu tiên ở đây. Chính Tylor là người đề xuất rằng nhân chủng học là ngành nghiên cứu “văn hóa,” một khái niệm mà ông định nghĩa là “phạm trù tổng hợp phức tạp bao gồm kiến thức, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, và bất kỳ khả năng và thói quen nào khác của con người với vai trò là một thành viên của xã hội.” Nền văn minh, như cách Arnold hiểu nó, cũng chỉ là một trong nhiều mô hình văn hóa mà thôi.
Ngày nay, khi mọi người bàn về văn hóa, họ thường chỉ bàn theo trường phái của Tylor hoặc Arnold. Ở vài khía cạnh, hai quan niệm này hoàn toàn trái ngược nhau. Lý tưởng của Arnold chính là “con người của văn hóa” và ông nhận định “văn hóa nguyên thủy” là một phép nghịch hợp (tức hai khái niệm văn hóa và nguyên thủy hoàn toàn trái ngược nhau). Tylor thì cho rằng thật vô lý khi nói rằng một người có thể không có văn hóa. Thế nhưng những quan điểm tương phản này lại gắn bó chặt chẽ với nhau trong nhận thức của chúng ta về văn hóa phương Tây, mà nhiều người nghĩ là thứ định hình danh tính của con người phương Tây hiện đại. Vì thế, hãy để tôi thử tháo gỡ những khúc mắc của chúng ta về văn hóa của cái mà chúng ta gọi là phương Tây, theo cả trường phái Tylor lẫn Arnold.
Ai đó đã hỏi Mahatma Gandhi rằng ông nghĩ gì về văn minh phương Tây, và ông đã trả lời rằng: “Tôi nghĩ nó là một ý tưởng tốt đẹp.” Giống như những câu chuyện ly kỳ nhất, thật đáng tiếc là câu chuyện này chưa được kiểm chứng; nhưng cũng như những câu chuyện hấp dẫn nhất, nó còn tồn tại bởi vì nó có một phần sự thật trong đó. Nhưng phản hồi của tôi (với câu hỏi trên) thì lại khác: tôi nghĩ bạn nên từ bỏ khái niệm văn minh phương Tây. Nó nhẹ nhàng nhất là nguồn gốc của sự rối rắm, và tồi tệ nhất thì là nguyên do của những bất ổn chính trị lớn nhất trong thời đại của chúng ta. Tôi chần chừ khi trái quan điểm với cả huyền thoại Gandhi, nhưng tôi tin rằng văn minh phương Tây hoàn toàn không phải là một ý tưởng tốt, và văn hóa phương Tây cũng vậy.
Một lý do cho sự mơ hồ về “văn hóa phương Tây” đến từ chính sự mơ hồ về “phương Tây.” Chúng ta vẫn dùng cụm từ “phương Tây” cho nhiều mục đích khác nhau. Rudyard Kipling, nhà thơ của đế chế Anh, đã viết, “Ôi, đông là đông mà tây là tây, chẳng có khi nào chúng gặp nhau”, nhằm nhấn mạnh sự tương phản giữa châu Âu và châu Á, nhưng hoàn toàn bỏ qua những lục địa khác. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, “phương Tây” là một phe ở bên Bức màn sắt (Iron Curtain)4; “phương Đông” là phe đối địch còn lại. Cách dùng này cũng bỏ qua phần còn lại của thế giới. Trong những năm gần đây, “phương Tây” thường được dùng để chỉ khu vực phía bắc Đại Tây Dương: châu Âu và những thuộc địa xưa của họ ở Bắc Mỹ. Phần đối nghịch chính là những quốc gia ở châu Phi, châu Á, và châu Mỹ Latin – mà giờ được gọi là “phía nam địa cầu” (the global south)5 – mặc dù những người ở châu Mỹ Latin vẫn tự nhận họ có gốc gác phương Tây. Cách nói này công nhận mọi châu lục, nhưng lại gộp chung nhiều xã hội cực kỳ khác nhau thành một nhóm; mặt khác, cách nói này cũng tinh tế tách riêng những người Úc, New Zealand, và người Nam Phi da trắng, như thể “phương Tây” ở đây là cách nói tránh cho người da trắng vậy.
Tất nhiên, gần đây chúng ta nói về thế giới phương Tây không nhằm phân biệt với phía nam mà là với thế giới Hồi giáo. Và những học giả Hồi giáo đôi khi cũng nhận định tương tự khi phân biệt giữa Dar al-Islam, ngôi nhà Hồi giáo, và Dar al-Kufr, ngôi nhà của những kẻ không cùng đức tin. Tôi muốn phân tích sự đối lập này sâu hơn. Vì những cuộc tranh luận ngày nay ở châu Âu và châu Mỹ xoay quanh việc, liệu văn hóa phương Tây có nguồn gốc từ Cơ đốc giáo mà sau này được thay thế bởi khái niệm châu Âu và rồi phương Tây hay không.
Danh tính của nền văn minh này bắt nguồn từ gần 1300 năm trước. Nhưng để có thể hiểu được câu chuyện một cách trọn vẹn, chúng ta cần quay ngược về thời điểm sớm hơn nữa.
*****
Sử gia Hy Lạp Herodotus6 đã viết trong một tác phẩm vào thế ký thứ năm trước Công Nguyên rằng thế giới được chia làm ba phần. Phía đông là châu Á, phía nam là lục địa Libya theo cách gọi của ông, và phần còn lại là châu Âu. Ông biết rằng con người, hàng hóa, và ý tưởng có thể di chuyển dễ dàng giữa các châu lục: bản thân ông đã đi dọc theo sông Nile đến tận Aswan, và cả hai bờ của Hellespont, biên giới truyền thống giữa châu Âu và châu Á. Thật ra, Herodotus thừa nhận rằng ông không hiểu “tại sao trái đất lại có đến ba cái tên (cho 3 châu lục), mà đều là của phụ nữ.”7 Mặc cho sự mơ hồ của ông, cách gọi này vẫn là sự phân chia địa lý thế giới có ảnh hưởng nhất với người Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Nhưng đây mới là điểm mấu chốt: Herodotus dường như chưa từng nghĩ rằng ba tên gọi này đại diện cho ba nhóm người: người châu Âu, châu Á, và châu Phi. Ông sinh ra ở Halicarnasus – mà ngày nay là thành phố Bodrum thuộc Thổ Nhĩ Kỳ. Vậy nhưng, sinh ra ở Tiểu Á chẳng khiến ông trở thành người châu Á; nó khiến ông trở thành người Hy Lạp. Và người Celt, ở vùng viễn tây châu Âu, xa lạ với ông hơn nhiều so với người Ba Tư hay Ai Cập, những người mà ông còn biết kha khá. Herodotus chỉ dùng từ “người châu Âu” (European) như một tính từ thay vì một danh từ. Cho đến cả một thiên niên kỷ sau thời kỳ của ông, cũng không một ai dùng từ “người châu Âu” để chỉ con người cả.
Rồi những đặc điểm địa lý mà Herodotus biết bị thay đổi nhanh chóng bởi sự lớn mạnh của đạo Hồi, tôn giáo đã vượt ra khỏi biên giới Ả Rập vào thế kỷ thứ bảy để lan rộng với tốc độ đáng kinh ngạc ở phía bắc, phía đông, và phía tây. Sau khi nhà tiên tri Muhammad qua đời vào năm 632, những người Ả Rập đánh bại đế chế Ba Tư sau gần 30 năm, một đế chế đã lan qua Trung Á đến tận Ấn Độ. Những người Ả Rập đó cũng quật ngã những khu vực còn sót lại của La Mã ở Byzantium8.
Triều đại Umayyad9, bắt đầu vào năm 661, bành trướng ra phía tây về Bắc Phi và phía đông về Trung Á. Đầu năm 711, vương triều cử một đạo quân vượt eo biển Gibraltar tấn công Tây Ban Nha, nơi mà những người Ả Rập gọi là al-Andalus, cũng chính là nơi mà đội quân tấn công những người Visigoth cai trị nhiều thành trì La Mã Hispania suốt hai thế kỷ. Trong vòng bảy năm, phần lớn bán đảo Iberia đã nằm dưới sự cai trị của người Hồi giáo; và chỉ đến năm 1492, tức gần 800 năm sau đó, người Thiên chúa mới giành lại được quyền kiểm soát.
Những kẻ Hồi giáo chinh phục Tây Ban Nha không chỉ định dừng lại ở Pyrennes, mà họ còn cố gắng bành trướng hơn nữa về phía bắc trong những năm đầu tiên. Nhưng vào năm 732CE ở Tours, Charles Martel, ông nội của Charlemagne10, đã đánh bại đội quân của al-Andalus, và trận đánh quan trọng này đã chấm dứt mọi nỗ lực của Ả Rập nhằm chinh phục khu vực của người Frank ở châu Âu (Frankish Europe). Nhà sử gia thế kỷ mười tám Edward Gibbon, dù hơi phóng đại, đã nhận định rằng nếu người Ả Rập chiến thắng ở Tours, họ có thể đánh chiếm đến cả sông Thames. Ông nói: “Có lẽ, những lời dạy kinh Koran sẽ được dạy khắp các trường ở Oxford, và các nhà linh mục giảng giải với những người đã được “tẩy rửa” về sự linh thiêng và sự thật về thiên khải của Mahomet.”
Điều quan trọng chúng ta cần quan tâm là việc từ “European” được lần đầu ghi nhận để chỉ một nhóm người, theo tôi được biết, chính là trong cuộc xung đột lần đầu này. Trong biên niên sử Latin được viết vào năm 754 ở Tây Ban Nha, tác giả nhắc đến những người chiến thắng trận chiến thành Tours bằng tên gọi “Europenses,” cũng chính là Europeans. Nói một cách đơn giản, khái niệm “European” ban đầu được dùng để phân biệt giữa người Cơ đốc và người Hồi giáo. (Ngay cả cách diễn giải trên vẫn đơn giản hóa vấn đề. Khoảng giữa thế kỷ thứ tám, nhiều khu vực ở châu Âu không theo Cơ đốc giáo.)
Bấy giờ, không một ai vào thời kỳ Trung cổ dùng từ “phương Tây” (western) để mô tả người châu Âu. Lý do thứ nhất bởi vì khu vực bờ biển Morocco, quê hương của người Moors, trải dài phía tây Ireland. Lý do thứ hai vì những kẻ cai trị Hồi giáo đang chiếm đóng Bán đảo Iberia – một phần của châu lục mà Herodotus gọi là châu Âu – tới tận thế kỷ thứ mười sáu. Sự tương phản tự nhiên không phải giữa phe Hồi giáo và phe phương Tây, mà chính là giữa Cơ đốc giáo và Hồi giáo, mỗi bên đều xem bên còn lại là những kẻ báng bổ vì không tin tôn giáo của họ.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ mười bốn, người Turk – nhóm người đã tạo nên đế chế Ottoman11 – dần dần mở rộng sự cai trị của mình sang châu Âu: Bulgaria, Hy Lạp, khu vực Balkan, và Hungary. Với thất bại của Suleiman đệ nhất ở Vienna năm 1529, công cuộc tái giành độc lập của Đông Âu bắt đầu. Đó là một quá trình dài dai dẳng. Chỉ đến năm 1699 đế chế Ottoman mới mất quyền kiểm soát Hungary; Hy Lạp hoàn toàn độc lập chỉ vào những năm đầu thế kỷ mười chín, Bulgaria còn trễ hơn nữa.
Bây giờ chúng ta đã có một bức tranh rõ hơn về châu Âu dưới ảnh hưởng của đạo Cơ đốc – Christendom – định hình qua sự chống cự. Thế nhưng sự chuyển đồi từ “Christendom” đến “văn hóa phương tây” lại không rõ ràng như thế.
Một phần do việc tầng lớp tri thức Cơ đốc châu Âu đã tiếp thu nhiều quan điểm từ những xã hội trước họ, những xã hội thuộc những dòng tôn giáo không phổ biến. Vào cuối thế kỷ mười hai, Chrétien de Troyes, sinh ra vài trăm km về phía tây nam Paris, ca ngợi những gốc gác xa xưa này: “Hy Lạp một thời nổi tiếng vì tinh thần thượng võ và kiến thức,” ông viết. “Rồi tinh thần thượng võ du nhập vào La Mã, cũng như tất cả các tri thức khác, mà bây giờ đã đến Pháp.”
Quan niệm rằng những gì tinh túy nhất của văn hóa Hy Lạp được truyền bá vào Tây Âu qua La Mã dần trở nên phổ biến vào thời kỳ trung cổ. Thật ra các học giả còn đặt tên cho quá trình này. Nó được gọi là “translatio studil”: sự truyền bá tri thức. Và nó là một khái niệm trường tồn đáng kinh ngạc qua thời gian. Hơn sáu thế kỷ sau, Georg Wilhelm Friedrich Hegel, nhà triết học vĩ đại người Đức, đã nói với các học sinh ở ngôi trường cấp ba của ông tại Nuremberg: “Nền tảng của học vấn sâu xa đầu tiên phải là văn học Hy Lạp, sau đó mới đến La Mã.”
Từ cuối thời kỳ trung cổ đến nay, mọi người đã nghĩ về những gì tinh túy nhất của văn hóa Hy Lạp và La Mã như những di sản của một nền văn minh, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác như một thỏi vàng quý hiếm, được đào ra khỏi lòng đất bởi người Hy Lạp, rồi truyền tay khi đế chế La Mã xâm chiếm họ. Bị chia cắt giữa những tòa án Felmish & Florentine và Cộng hòa Venetian thời kỳ Phục hưng, những mảnh vụn của “thỏi vàng” được truyền bá qua các thành phố như là Avignon, Paris, Amsterdam, Weimar, Edinburg, và London, và cuối cùng tụ hội thành một khối như một cái lư Grecian rạn nứt- tại các học viện ở châu Âu và Hoa Kỳ.
*****
Có nhiều cách để làm câu chuyện về thỏi vàng trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng tất cả đều phải đối mặt với một vấn đề lịch sử nếu những cách đó muốn biến câu chuyện thỏi vàng thành cốt lõi của một nền văn minh đối nghịch với Hồi giáo. Bởi lẽ sự kế thừa cổ điển làm nên câu chuyện thỏi vàng cũng có ở giới học thuật Hồi giáo. Ở Baghdad thế kỷ thứ chín dưới triều đại Abbasid12, thư viện hoàng gia đã có những tác phẩm được dịch sang tiếng Ả Rập của Plato và Aristotle, Pythagoras và Eucilid. Vào những thế kỷ mà Petrarch gọi là Thời kỳ Đen tối (Dark Ages)13, khi mà châu Âu Cơ đốc hầu như không đóng góp gì cho công cuộc nghiên cứu triết học cổ điển Hy Lạp, và nhiều tác phẩm đã thất lạc, thì những công trình này được bảo tồn bởi các học giả Hồi giáo. Phần lớn hiểu biết của chúng ta ngày nay về triết học cổ điển Hy Lạp có được chính bởi những văn bản đó được các học giả châu Âu phục hồi từ thư viện Ả Rập trong thời kỳ Phục hưng.
Trong tâm trí của những người biên sử Cơ đốc, cuộc chiến thành Tours đã khiến người châu Âu chống lại người Hồi giáo; nhưng những người Hồi giáo gốc al-Andalus14 hiếu chiến lại không nghĩ rằng chiến đấu vì lãnh thổ đồng nghĩa với việc bạn không thể có chung suy nghĩ. Vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất, các thành phố của Cordoba15 là nơi cư ngụ của cả người Do thái, Cơ đốc, và Hồi giáo từ Berbers, Visigoths, Slavs và hàng loạt thành phố khác.
Không có giáo sĩ Do Thái hay học giả Hồi giáo nào ở cung điện của vua Charlemagne; thế nhưng trong các thành phố của al-Andalus thì có cả các giám mục và giáo đường Do Thái. Racemondo, giám mục Cơ Đốc ở Elvira, là sứ giả của Cordoba với vương quốc Byzantine và đế chế La Mã Thần thánh. Hasdai ibn Shaprut, lãnh tụ của cộng đồng Do Thái ở Cordoba vào giữa thế kỷ thứ mười, không chỉ là một học giả y học vĩ đại mà còn là chủ tịch của hội đồng y học của Caliph16; và khi Hoàng đế Constantine của Byzantium gửi Caliph một bản sao De Materia Medica17 của Dioscorides, Racemondo đã tiếp nhận lời khuyên của Ibn Shaprut và dịch văn bản này sang tiếng Ả Rập, nhờ đó mà Cordoba đã trở thành một trong những trung tâm lớn nhất của tri thức y học ở châu Âu. Công cuộc dịch các tác phẩm của Ibn Rushd, bắt đầu ở Cordoba vào thế kỷ mười hai, sang ngôn ngữ Latin đã khai sinh hành trình tái khám phá triết lý Aristotle của châu Âu. Ibh Rushd có tên gọi bằng tiếng Latin là Averroes, hay thông dụng hơn là “Nhà Bình Giải”, bởi những lời giảng giải của ông về Aristotle. Thế nên những phong tục cổ truyền mà đáng nhẽ phân biệt văn minh phương tây với con cháu của các vương triều Hồi giáo thật ra là điểm kết nối giữa hai bên.
Cụm từ “văn hóa phương Tây” chỉ mới xuất hiện gần đây – chắc chắn sau cả phát minh máy hát cổ điển.
Nhưng câu chuyện về thỏi vàng chắc chắn gặp nhiều thử thách. Nó mường tượng văn hóa phương Tây như là sự thể hiện của một cái cốt lõi, một thứ gì đó, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác xuyên suốt lịch sử. Những lỗ hổng của kiểu bản chất luận (essentialism) này khá rõ ràng trong nhiều trường hợp. Cho dù vấn đề tranh luận là tôn giáo, tính dân tộc, chủng tộc, hay văn hóa, con người luôn cho rằng một danh phận mà sinh tồn qua thời gian và không gian phải có những đặc điểm chung nổi bật và trường tồn. Nhưng đó đơn giản là một sai lầm. Nước Anh trông như thế nào trong thời kỳ của Chaucer, cha đẻ của văn học Anh, người đã mất hơn 600 năm trước? Chọn bất kỳ điểm nổi bật trong giai đoạn đó, bất kỳ tổ hợp gì về phong tục, ý tưởng, và vật chất mà làm nên cái “chất” của nước Anh thời đó. Và bất kể bạn chọn điều gì để phân biệt chất Anh bây giờ, chắc chắn nó sẽ không giống lúc trước. Đúng hơn là, khi thời gian trôi đi, mỗi thế hệ kế thừa một cái mác danh tính từ thế hệ trước, và cái mác đó gắn liền với một di sản. Nhưng khi những di sản bị thất lạc hoặc trao đổi với những kho tàng mới, thì cái mác đó lại vẫn tiếp tục được truyền bá. Vì thế, khi những người trong một thế hệ di chuyển từ khu vực này sang một khu vực khác mà danh tính nước Anh đã từng hiện diện – ví dụ như New England – cái mác nói trên có thể di chuyển vượt qua giới hạn lãnh thổ. Nói một cách ngắn gọn thì những danh tính này được lưu giữ bởi các câu chuyện mà không hề có thực chất. Bạn không được gọi là “người Anh” bởi vì bạn có những đặc điểm tạo nên cái mác này; bạn là người Anh bởi vì những quy định của chúng ta quyết định rằng bạn được hưởng cái mác đó do bạn bằng cách nào đó có liên quan đến một nơi gọi là nước Anh.
Vậy làm thế nào những người ở phía bắc Đại Tây Dương, và họ hàng của họ ở khắp thế giới, có sự liên hệ với cái mà ta gọi là phương Tây, và có được danh tính là những thành phần của cái gọi là văn hóa phương Tây?
*****
Ắt hẳn bạn đọc sẽ bất ngờ khi biết cụm từ “văn hóa phương Tây” chỉ mới xuất hiện gần đây – chắc chắn sau cả phát minh máy hát cổ điển (phonograph). Tylor không bao giờ nhắc đến nó cả. Và thật ra ông cũng không có lý do gì để làm việc đó, khi mà ông cảm nhận sâu sắc sự đa dạng văn hóa ngay bên trong đất nước của mình. Năm 1871 ông tường trình bằng chứng về thuật phù thủy ở ngoại ô Somerset. Một cơn gió mạnh đã thổi vài củ hành nướng bị đâm chi chít bởi kim châm ra khỏi ống khói. Tylor viết. “Một củ hành có ghi tên của một người anh em là quan tòa của tôi, người mà bị lão phù thủy, người trông nom của quán rượu, đặc biệt ghét … và cũng là người mà lão dự tính trừ khử bằng cách đâm và nướng củ hành đại diện cho người anh em của tôi.” Thật đúng là văn hóa nguyên thủy.
Vậy nên bản thân khái niệm “phương Tây,” để chỉ một di sản và đối tượng nghiên cứu, chỉ xuất hiện bắt đầu từ thập niên 1890, vào thời kỳ căng thẳng của chủ nghĩa phong kiến, và chỉ thật sự được nhiều người biết đến vào thế kỷ hai mươi. Vào thời điểm Thế chiến thứ nhất, khi Osward Spengle viết quyển sách cực kỳ ảnh hưởng mà tiêu đề có thể được dịch là Cuộc thoái trào của phương Tây (The Decline of the West) – đây cũng là quyển sách giới thiệu khái niệm này tới nhiều độc giả – ông đã chế giễu ý kiến cho rằng có sự tiếp nối giữa văn hóa phương Tây và thế giới cổ điển. Trong chuyến thăm Balkans vào cuối thập niên 1930, nhà văn và phóng viên Rebecca West thuật lại cảm xúc của một du khách rằng “cảm giác đó chỉ mới gần đây thôi, một cơn bão mà đáng lẽ đã đánh sập cả nền văn hóa phương Tây của chúng ta.” Cơn bão gần nhất chính là cuộc vây đánh Vienna của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1683.
Nói thẳng ra thì, nếu văn hóa phương Tây đúng là có thật, chúng ta đã không cần phải tốn nhiều thời gian để nói về nó như thế.
Nếu khái niệm về cộng đồng Cơ đốc giáo chỉ là bình phong che giấu cuộc đấu tranh vũ trang dai dẳng chống lại các lực lượng Hồi giáo, thì khái niệm văn hóa phương tây thời hiện đại bắt nguồn phần lớn từ Chiến tranh lạnh. Trong cái giá lạnh của chiến tranh, chúng ta đã thêu dệt nên câu chuyện vĩ đại về nền dân chủ Athen, Magna Carta18, cuộc cách mạng của Copernicus19, và nhiều thứ khác nữa. Từ Plato đến Nato. Cốt lõi của văn hóa phương tây nằm ở chủ nghĩa cá nhân, dân chủ, tự do trong suy nghĩ, khoan dung, tiến bộ, lý tính, và trọng khoa học. Đừng bận tâm đến chuyện châu Âu thời kỳ tiền hiện đại không hề giống như những điều trên, và đến tận thế kỷ trước thì dân chủ vẫn là điều hiếm hoi ở châu Âu – một việc mà những người ủng hộ chủ nghĩa phương Tây nhiệt liệt nhất cũng không ca ngợi được điểm gì. Ý tưởng khoan dung là nền móng của văn hóa phương Tây có lẽ sẽ gây bất ngờ cho Edward Burnett Tylor, người từng bị cấm đi học ở các trường đại học lớn ở nước Anh vì ông là một Quaker. Nói thẳng ra thì, nếu văn hóa phương Tây đúng là có thật, chúng ta đã không cần phải tốn nhiều thời gian để nói về nó như thế.
Tất nhiên, khi mà văn hóa phương Tây là cụm từ để ca ngợi, nó cũng sẽ trở thành cụm từ để phê phán. Những người chỉ trích văn hóa phương Tây, công kích mảng tối của nó bằng cách nhấn mạnh sự chiếm hữu nô lệ, quá trình xâm lược, phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa quân phiệt, và tội diệt chủng, cũng đi theo chủ nghĩa bản chất nhắc đến ở trên, chỉ khác là họ thấy thỏi arsen thay vì thỏi vàng mà thôi.
Công cuộc bàn luận về “văn hóa phương Tây” ngày càng xuất hiện nhiều điểm không hợp lý. Nó gán cho danh tính “văn hóa phương Tây” những thành tựu tri thức và mỹ thuật cao quý – triết học, văn học, hội họa, âm nhạc; những thứ mà Arnold xem trọng và những nhà nhân văn học nghiên cứu. Nhưng nếu văn hóa phương Tây đã hiện diện ở Troyes20 vào cuối thế kỷ mười hai khi Chrétien còn sống, nó không có ảnh hưởng đáng kể gì đến cuộc sống của phần lớn những người đồng hương của ông, những người không biết một chữ Latin hay Hy Lạp, và chưa bao giờ nghe đến cái tên Plato. Ngày nay những di sản cổ điển này cũng không chiếm một vai trò quan trọng trong cuộc sống của phần lớn người Mỹ hay Anh. Liệu những thành tựu kiểu Arnold này có phải là thứ kết nối chúng ta? Chắc chắn là không. Điều kết nối chúng ta chính là định nghĩa về văn hóa của Tylor: những quy tắc về cách ăn mặc và chào hỏi, những thói quen hành vi định hình quan hệ giữa đàn ông và phụ nữ, cha mẹ và con cái, cảnh sát và người dân, kẻ bán và người mua. Những người tri thức như tôi thường có xu hướng cho rằng những điều chúng ta quan tâm là những điều quan trọng nhất. Tôi không nói những điều trên không quan trọng. Nhưng nó chẳng quan trọng như những gì mà câu chuyện thỏi vàng đã nói với chúng ta.
Thế thì làm sao chúng ta có thể lấp đầy khoảng cách này? Bằng cách nào chúng ta tự khẳng định rằng chúng ta là những người thừa kế chính thống của Plato, Aquinas, và Kant, khi mà những thứ làm nên chúng ta thì giống Beyoncé và Burger King hơn? Câu trả lời là bằng cách hòa quyện quan điểm Tylor và Arnold, quan điểm thường nhật và quan điểm lý tưởng. Và chìa khóa của việc này đã hiện hữu sẵn trong nghiên cứu của Tylor. Hãy nhớ lại định nghĩa nổi tiếng của ông: nó cho rằng văn hóa như “một khối tổng hòa phức tạp.” Điều bạn mới nghe đến còn được gọi là thuyết hữu cơ (organicism). Quan điểm văn hóa không phải là sự kết nối lỏng lẻo của nhiều mảng rời rạc mà là một thể hữu cơ thống nhất, mỗi thành phần, như một cơ quan trong cơ thể, thích nghi một cách cẩn thận để giữ một vị trí nhất định, và đều quan trọng cho sự vận hành tổng thể. Cuộc thi ca nhạc Eurovision, nghệ thuật cắt bỏ (cut-out) của Matisse, những đoạn đối thoại của Plato đều là những phần của một thể thống nhất lớn hơn. Cũng vì thế, chúng đều có một vị trí trong kho tàng văn hóa của bạn, dù cho bạn chưa bao giờ trải nghiệm chúng. Dù cho nó không phải là điều bạn thích, nó vẫn là một phần di sản và tài sản của bạn. Thuyết hữu cơ giải thích làm thế nào mà cuộc sống hàng ngày của chúng ta được phủ lên bằng vàng.
Những người Anh từng thay món cá và khoai chiên (fish and chips) truyền thống của họ bằng gà tikka masala, bây giờ, tôi đoán rằng họ đều ăn Nando.
Bây giờ, đời sống văn hóa của ta có những tập hợp hữu cơ: tất cả những âm nhạc, ngôn từ, sân khấu, vũ đạo của một vở opera đều hòa quyện với nhau, được sinh ra để bổ trợ cho nhau. Wagner gọi việc này là một Gesamtkunstwerk, một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh. Thế nhưng chúng ta lại không có một thể thống nhất gọi là văn hóa mà hợp nhất tất cả các phần này một cách tự nhiên. Ở trung tâm của “phương Tây,” Tây Ban Nha đã chống lại khái niệm dân chủ khai phóng trong suốt hai thế hệ sau khi họ rút khỏi Ấn Độ và Nhật Bản, cái nôi của chủ nghĩa chuyên quyền phương Đông. Di sản văn hóa của Tổng thống Jefferson – chủ nghĩa tự do Athen và Anglo-Saxon – không ngăn nước Mỹ khỏi việc tạo nên một nền cộng hòa nô dịch. Cùng thời điểm đó, Franz Kafka và Miles Davis có thể sống chung một cách dễ dàng, thậm chí dễ dàng hơn cả Kafka và người đồng hương Áo – Hung của ông, Johann Strauss. Bạn sẽ bắt gặp hip hop trên đường phố Tokyo. Điều tương tự cũng xuất hiện trong ẩm thực: những người Anh từng thay món cá và khoai chiên (fish and chips) truyền thống của họ bằng gà tikka masala21, bây giờ, tôi đoán rằng họ đều ăn Nando22.
Một khi chúng ta từ bỏ thuyết hữu cơ, chúng ta có thể tiếp nhận một bức tranh toàn cầu hơn mà ở đó mọi thành phần của văn hóa, từ triết học đến ẩm thực đến cách cơ thể chuyển động, tách biệt về mặt nguyên lý với những thành phần khác – bạn có thể đi lại và nói chuyện như một người Mỹ gốc Phi và suy nghĩ như Matthew Arnold và Immanuel Kant, cũng như là Martin Luther King và Miles Davis. Không có cốt lõi nào của đạo Hồi cấm cư dân của Dar al-Islam tiếp nhận bất kỳ điều gì từ văn minh phương Tây, bao gồm Cơ đốc giáo hay nền dân chủ. Cũng như không có điều gì của phương Tây cấm một người New York tiếp nhận đạo Hồi.
Những câu chuyện chúng ta kể nhằm kết nối Plato hay Aristotle hay Cicero hay Thánh Augustine với văn hóa đương đại ở khu vực bắc Đại Tây Dương tất nhiên cũng có vài phần sự thật. Chúng ta có một truyền thống tự nhận thức về học thuật và tranh luận. Tuy nhiên, thật là ảo tưởng nếu nghĩ rằng chúng ta tiếp cận được đến những giá trị đó là đủ rồi, như thể chúng là những bài hát trong danh sách Spotify mà bạn hầu như không nghe vậy. Nếu những nhà tư tưởng này là một phần của hệ văn hóa Arnold, không có điều gì đảm bảo rằng những gì tinh túy nhất của họ sẽ tiếp tục có ý nghĩa với những đứa trẻ thời nay nhìn lại, giống như việc vị trí trung tâm của Aristotle trong suy nghĩ người Hồi giáo trong hàng trăm năm không thể đảm bảo một vị trí trang trọng cho ông trong văn hóa Hồi giáo hiện đại.
Những giá trị trên không phải là thứ bạn có khi được sinh ra: bạn cần phải tiếp tục quan tâm đến chúng. Sống ở phương Tây, bất luận bạn định nghĩa cái “phương Tây” đó là gì, thì việc là người phương Tây không đảm bảo rằng bạn sẽ quan tâm đến văn minh phương Tây. Những giá trị mà các nhà nhân văn châu Âu tán dương cũng có thể dễ dàng thuộc về một người châu Phi hoặc châu Á nếu người đó chú tâm tìm tòi như một người châu Âu. Cũng với logic đó, những giá trị đó tất nhiên sẽ không thuộc về một người châu Âu không quan tâm học hỏi hấp thu chúng. Điều tương tự cũng áp dụng cho các trường hợp khác. Câu chuyện về thỏi vàng gợi ý rằng chúng ta không thể không quan tâm đến phong tục tập quán của “phương Tây” bởi vì nó là của chúng ta: thật ra, chiều ngược lại mới đúng. Những giá trị này chỉ là của chúng ta nếu ta quan tâm đến chúng. Một nền văn hóa của tự do, khoan dung, và học hỏi lý tính: đó là một ý tưởng tốt. Nhưng những giá trị này đại diện cho những lựa chọn, không phải những con đường được lát sẵn bởi một vận mệnh phương Tây.
Vào cái năm mà Edward Burnett Tylor qua đời, những gì chúng ta được dạy về cái gọi là văn minh phương Tây bỗng rơi vào trận đấu sinh tử với chính nó: phe Đồng Minh và phe Liên minh Trung tâm tấn công nhau, đưa hàng ngàn thanh niên vào chỗ chết dưới danh nghĩa “bảo vệ nền văn minh.” Những cánh đồng đầy máu và những cái mương đậm khí độc có lẽ sẽ làm kinh hãi những hy vọng cấp tiến của Tylor và khẳng định nỗi sợ lớn nhất của Arnold về ý nghĩa thực sự của văn minh. Có lẽ cả Arnold và Tylor đều đồng ý về điểm này: văn hóa không phải là một ô để đánh dấu trên bảng câu hỏi của loài người; nó là một quá trình bạn phải tham gia, là một cuộc sống bạn phải sống với những người khác.
Văn hóa – giống như tôn giáo, quốc gia, và chủng tộc – là nguồn gốc danh tính của con người đương đại. Và, cũng như ba điều đó, văn hóa có thể trở thành một hình thái giam cầm, những sai lầm về mặt nhận thức đi liền với những sai lầm về mặt đạo đức. Nhưng chúng đều có thể đặt ranh giới cho sự tự do của chúng ta. Những danh tính xã hội kết nối những quy mô nhỏ nơi chúng ta sống cùng người thân và bạn bè mình đến những phong trào, lý tưởng, và mối quan tâm lớn hơn. Chúng có thể làm cho một thế giới rộng lớn trở nên dễ hiểu, sinh động, và cấp bách. Chúng có thể mở rộng tầm nhìn của chúng ta đến với những cộng đồng lớn hơn chính cộng đồng của chúng ta. Nhưng cuộc đời chúng ta cũng phải có ý nghĩa ở mức lớn nhất của mọi thang đo. Chúng ta sống trong một thời kỳ mà những hành động của chúng ta, cả trong phạm trù tư tưởng lẫn công nghệ, ngày càng có ảnh hưởng toàn cầu. Khi nhắc đến la bàn của sự quan tâm và đồng cảm của chúng ta, tổng thể nhân loại chẳng hề rộng lớn như đường chân trời.
Chúng ta sống cùng với bảy tỷ người trên một hành tinh nhỏ nhắn và ấm áp. Sự thôi thúc về thế giới mà dựa trên nền tảng nhân loại của chúng ta đã không còn là một xa xỉ phẩm nữa; nó đã trở thành một phần thiết yếu của cuộc sống. Và để gói gọn tư tưởng này tôi có thể lấy cảm hứng từ một nhân vật thường xuyên được nhắc đến trong các lớp học về nền văn minh phương Tây, bởi vì tôi không nghĩ tôi có thể làm tốt hơn sự diễn giải của nhà soạn kịch Terence: từng là một nô lệ từ châu Phi La Mã, nhà dịch thuật hài kịch Hy Lạp sang Latin, tác giả phong trào châu Âu cổ điển tự gọi bản thân là người châu Phi Terence. Ông từng viết, “Homo sum, humani nihil a me alienum puto.” “Tôi là con người, tôi không nghĩ con người xa lạ với tôi.” Đấy chính là thứ danh tính đáng để giữ gìn.
Ngài Edward Burnett Tylor (02/10/1832 – 02/01/1917) là nhà nhân chủng học người Anh. Ông còn là cha để của bộ môn nhân chủng học hiện đại.↩
Quaker là một hội nhóm Cơ đốc giáo có nguồn gốc ở Anh. Những thành viên trong hội tin rằng “Chúa ở trong mọi người,” vì thế nên họ tin rằng bất kỳ tín hữu nào đều có thể gia nhập tăng đoàn.↩
Matthew Arnold (24/12/1822 – 15/04/1888) là nhà thơ và phê bình văn hóa người Anh.↩
Bức màn sắt là tên gọi của ranh giới chia cắt châu Âu thành hai khu vực riêng biệt (Xô Viết và NATO) từ cuối Thế chiến thứ hai (1945) đến cuối thời kỳ Chiến tranh lạnh (1991).↩
“Nam Địa cầu” là thuật ngữ được dùng trong các nghiên cứu sau thời kỳ thực dân để chỉ những nước thuộc “Thế giới thứ ba”. Đây là những nước không theo NATO hay Cộng sản trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, và thường là những nước kém phát triển.↩
Herodotus là sử gia người Hy Lạp sinh ra ở Halicarnassus (Đế chế Ba Tư) trong thế kỷ thứ năm trước CN. Ông thường được nhắc đến như là “Cha của Lịch sử.”↩
Đại ý câu này chính là việc Herodotus thắc mắc về nguồn gốc tên gọi của các châu lục. Tương truyền rằng Libya là tên một người phụ nữ, Asia là tên vợ của Prometheus. còn Europe thì đọc theo Tyrian Europa, một người phụ nữ khác.↩
Istanbul – thủ đô của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.↩
Triều đại Umayyad là triều đại thứ hai trong bốn triều đại Hồi giáo chính sau cái chết của nhà tiên tri Muhammad.↩
Charlemagne hay Charles Đệ nhất, là Vua của người Frank từ năm 768, Vua của người Lombard từ 774 và Hoàng đế của người La Mã từ năm 800.↩
Tiền thân của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.↩
Abbasid là triều đại Hồi giáo thứ ba sau khi nhà tiên tri Muhammad mất.↩
Diễn ra vào thời kỳ Trung đại, khi mà sự suy thoái về văn hóa, kinh tế,… dẫn đền sự sụp đổ của Triều đại La Mã.↩
Al-Andalus, còn được biết đến là Tây Ban Nha Hồi giáo, là một khu vực theo đạo Hồi vào thời kỳ Trung cổ. Ngày nay, nó nằm giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.↩
Một thành phố nằm ở phía nam Tây Ban Nha.↩
Caliph (tiếng Ả Rập: خَليفة ) là người kế thừa vị trí lãnh đạo Hồi giáo của nhà tiên tri Muhammad.↩
Dược thư về các loại thảo mộc và các bài thuốc từ chúng.↩
Đại hiến chương là một văn kiện thời Trung cổ, được vua John của Anh chuẩn thuận ở Runnymede, gần Windsor, vào ngày 15 tháng 6 năm 1215. Văn kiện như một hiệp ước hòa bình giữa vua John (Anh) và các quý tộc nổi loạn.↩
Là người đầu tiên chứng minh Mặt trời mới là trung tâm “vũ trụ” (Hệ mặt trời) trong thời kỳ mọi người tin rằng Trái đất mới là trung tâm vũ trụ.↩
Troyes nằm dọc theo sông Seine, cách 150 km về phía đông nam Paris (Pháp).↩
Gà tikka masala là một món ăn Ấn Độ.↩
Là một chuỗi nhà hàng xuất xứ Nam Phi, với đặc sản là gà nướng ớt.↩