a
§ Tác giả: Kris Lane | Nguồn: Aeon
Biên dịch: Mai Nhi | Hiệu đính:  Thuỷ Tiên
05/06/2021

Năm 1678, một linh mục Chaldea1 đã xuất phát từ Baghdad đến Biệt thự Hoàng gia Potosí, khi đó là mỏ khai thác bạc lớn nhất và thành phố cao nhất thế giới, nằm tại vị trí 4.000 mét so với mực nước biển. Vốn là vùng thủ phủ trong lòng của dãy Andes thuộc Bolivia, hơn ba thế kỷ sau, Potosi vẫn là một thành phố mỏ quặng, nơi những tháp nhà thờ ba-rốc ngắm nhìn đoàn xe tải rùng rùng chất đầy quặng kẽm và chì, đem chúng đi xuất khẩu tại Châu Á.

Elias al-Mûsili, còn được biết đến với cái tên Don Elias vùng Mosul2, đặt chân đến Potosí vào thế kỷ thứ 17 với đặc phép từ Nhiếp chính Nữ hoàng Tây Ban Nha, Mariana của Áo, để quyên góp cho nhà thờ đang gặp khó khăn của mình. Don Elias tin rằng bạc của Potosí sẽ xua đuổi những người Ottoman theo đạo Hồi giáo Sunni, và những người Safavid3 theo đạo Hồi giáo Shia luôn tranh giành quyền kiểm soát Iraq, biến Baghdad thành manh mún với những loại vũ khí thuốc súng mới nhất, tân tiến nhất. Gây quan ngại không kém cho Don Elias là các tín hữu Cơ Đốc, những kẻ ly giáo chẳng còn liên hệ với Rome.

Ngọn núi đỏ Cerro Rico, hay “Đồi bạc”, đứng sừng sững cạnh bên thành phố Potosí. Ngọn núi này được khai thác từ năm 1545 bởi những toán lính bản địa Andes, sống nhờ vào lá coca, bia bắp và khoai tây sấy lạnh. Vào thời kỳ hoàng kim từ khoảng những năm 1575 – 1635, Potosí sản xuất ra gần một nửa sản lượng bạc của thế giới. Khi Don Elias đặt chân đến đây hơn một thế kỷ sau, chuyện đó đã không còn nữa nhưng những mỏ bạc vẫn được đều đặn khai thác.

Đến năm 1678 thì nguồn nhân lực bản địa ít đi và sản lượng mỏ cũng giảm xuống. Vậy mà trong xưởng đúc tiền hoàng gia của thành phố, Don Elias trầm trồ trước chồng chồng “tiền xu trong tám thực” đẽo thô, tiền thân của đồng đô-la Mỹ, được tạo tác bởi những người nô lệ Châu Phi. Ông cho biết chúng “chất đống trên mặt đất, bị giẫm lên như cỏ như rơm.” Trong một khoảng thời gian dài, kỹ thuật thời trung đại của Potosí đã sản xuất ra bao châu báu, dù quy mô có khi bị thu nhỏ.

Tại khu chợ trời chính của Potosí, phụ nữ Châu Phi và bản địa rao mời món bia bắp, súp nóng và thức uống từ cây yerba mate4. Các cửa tiệm bày bán những thứ lụa và lanh cao cấp nhất thế giới, sứ Trung Hoa, đồ thủy tinh Venice, đồ da thuộc của Nga, đồ sơn mài Nhật Bản, tranh Flemish5 và những cuốn sách bán chạy nhất bằng hàng tá thứ ngôn ngữ. Lễ vật bằng ngà voi Châu Phi, chế tác bởi các nghệ nhân Trung Hoa tại Manila là món hàng luôn được những người phụ nữ giàu có và thành tín nhất thành phố săn đón.

Sùng đạo hay không, những người phụ nữ giàu có rảo bước trên đường phố lát đá của Potosí với những đôi giày đế bục gót bạc, những hoa tai vàng, dây chuyền và vòng tay nạm đầy kim cương Ấn Độ và hồng ngọc Miến Điện. Ngọc lục bảo từ Colombia và ngọc trai từ vùng Caribe gần như quá phổ biến. Những người Tây Ban Nha sành ăn được tận hưởng hạnh nhân nhập khẩu, bạch hoa, ô-liu, gạo arborio, nhụy huệ tây, rượu ngọt và rượu khô từ Castilla. Tiêu đen đến từ Sumatra và Tây Nam Ấn, quế từ Sri Lanka, đinh hương từ Maluku và nhục đậu khấu đến từ quần đảo Banda. Jamaica cung cấp hạt tiêu Jamaica. Những chiếc tàu chuyên chở chất đầy hàng hóa cao cấp, đi hàng tháng trời qua vùng biển Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. La thồ hàng và đàn lạc đà không bướu tải chúng lên đến tận Biệt thự Hoàng gia cao ngất.

Potosí cung cấp bạc — mạch máu cho thương mại và tài lực chiến tranh cho thế giới; và cũng như theo Don Elias, là cách tốt nhất để phát triển Công giáo La Mã. Bù lại, thành phố này tiêu thụ hàng hoá và chế phẩm hàng đầu thế giới. Thương nhân giành lấy cơ hội đổi hàng hóa lấy những đồng tiền mới tinh, lấp lánh. Hàng tá đơn vị công chứng làm việc không ngừng nghỉ phân loại bạc thỏi và những túi đựng đồng peso, chất đầy chúng lên những con la thồ cho chuyến đi xuyên dãy Andes đến bến cảng Thái Bình Dương tại Châu Phi, hoặc cả những chuyến đường mất từ bốn đến sáu tháng về phía nam đến Buenos Aires. Mùa mưa, nước sông cuồn cuộn, mùa khô, gia súc chết khát bên những hố nước cạn khô.

La thồ trở về từ Thái Bình Dương đem theo hàng hóa và thủy ngân, thứ nguyên liệu cần thiết để tinh luyện bạc. Phần lớn thủy ngân đến từ Huancavelica thuộc Peru, nhưng nhà Habsburgs6 Tây Ban Nha cũng có mỏ khai thác tại Almadén (La Mancha) và Idrija (Slovenia). Những người chủ nô lệ từ Buenos Aires thường sở hữu nô lệ Congo và Angola, họ được chuyển đến bằng tàu qua Rio de Janeiro. Rất nhiều nô lệ là trẻ em mang trên mình dấu tích, gồm cả dấu vương miện hoàng gia hệt như trên những thỏi bạc vậy.

Không lâu sau khi được phát hiện năm 1545, Potosí nổi danh toàn cầu nhưng những mỏ đào khác tại Trung Âu cũng phát triển chẳng kém, chỉ khựng lại trước khi Potosí đến đỉnh cao của mình vào những năm 1570. Bạc được phát hiện tại Na-uy vào những năm 1620 nhưng chẳng đủ để xuất khẩu. Những mỏ bạc Iwami phía tây nam Nhật Bản được khai thác vào những năm 1520, đều đặn sản xuất lượng bạc đủ để xuất khẩu ở cảng Nagasaki sau 1570 cho người Bồ Đào Nha và sau đó là người Hà Lan từ 1641 đến 1668. Dù vậy nguồn tiêu thụ bạc chính của Nhật Bản là người Trung Hoa. Các học giả tranh luận về số lượng, nhưng Iwami không sánh được với Potosí.

Ngay từ những năm 1530, Mexico cũng xuất khẩu một lượng bạc đáng kể. Dù vậy những mỏ khai thác Mexico — Zacatecas, Guanajuato, Taxco, Pachuca, Real del Monte và cả nơi tên là San Luis Potosí — chỉ đạt đến đỉnh cao sau 1690. Vào thế kỉ 18, đồng peso Mexico hay “đồng đô-la cột” càn quét thế giới. Thậm chí ở dãy Andes Nam Mỹ mọc lên những thành phố bạc khác như Oruro và Castrovirreyna tại Peru. Nhưng chẳng có lấy một núi bạc nào có thể sánh được với Cerro Rico, và chẳng có một tổ hợp công nghiệp nào khổng lồ như thế. Potosí là một đô thị khai thác mỏ, độc nhất vô nhị.

Do đó, Don Elias cũng như kẻ khác, đã hành hương đến núi bạc này như một lời sấm truyền cổ đại và thiêng liêng. Năm 1580, các nghệ sĩ của đế quốc Ottoman họa nên một Potosí tựa như góc vườn địa đàng, với ngọn đồi Cerro Rico xanh mơn man và những bức tường thành bao quanh thành phố. Như Don Quixote nói, Potosí đẹp như một giấc mơ. Một kẻ tìm quặng khác thì tuyên bố vào năm 1600 rằng ngọn đồi Cerro Rico chính là Kỳ quan thứ tám của Thế giới. 1615, một người khách bản địa cảm động mà rằng: “Nhờ có khu mỏ, Castile là Castile, La Mã là La Mã, Giáo hoàng là Giáo hoàng và đức vua là quân vương của thế giới.” Bản đồ thế giới sản xuất năm 1602 của Trung Quốc gọi Cerro Rico là Bei Du Xi Shan — Bắc Đạt Tây Sơn.

Với tất cả tiếng tăm và sự thịnh vượng, Potosí cũng là nguồn cơn của bao ác mộng, một tiểu cảnh của sự tàn ác, của sự ô uế và tội ác. Don Elias vào năm 1678 có lẽ đã không biết được rằng danh tiếng của Potosí — cùng với đó là danh tiếng của Đế quốc Tây Ban Nha — đã khốn đốn vô cùng mới chỉ một thế hệ trước. Năm 1647, trong khi hoàng gia bị phá sản, vua Philip IV đã phái một cựu quan tòa án dị giáo làm sáng tỏ âm mưu pha trộn khi đúc tiền đang lây lan trong xưởng đúc tiền hoàng gia Potosí. Mưu trò nhũng nhiễu chẳng chừa mấy ai. Thậm chí phó vương của Peru cũng bị nghi ngờ. Tiền xu kém chất lượng của Potosí, gồm phần lớn là miếng tám, được đem ra thị trường thế giới sau 1638, và chẳng lâu sau đó, từ Boston đến Bắc Kinh chẳng ai muốn đồng bạc Potosí nữa. Suối nguồn của sự giàu có cũng từ đó mà thành giếng độc chết chóc.

Phải mất hơn cả thập kỷ để truy tìm và trừng phạt những kẻ nhúng tay vào vụ việc cũng như đưa hệ thống tiền tệ trở về cân nặng và độ tinh khiết ban đầu. Các đồng bạc đều có thiết kế mới để phân biệt với những đồng cũ, nhưng hàng thập kỷ sau Potosí mới giành lại niềm tin toàn cầu. Đến những năm 1670, ngay khi Don Elias đi giảng đạo để đổi lấy quyên góp tại Syriac, nông dân trồng tiêu Sumantra vẫn còn ngần ngại với những đồng bạc in chữ “P”.

Potosí bên ngọn núi Cerro Rico. Nguồn: Gerd Breitenbach.

Hệt như vụ bê bối Bernard Madoff7 những năm 2000, vụ việc đúc tiền gian của Potosí vào khoảng 1640 cho thấy một câu chuyện thú vị, thường thấy. Chẳng ai muốn thừa nhận mình bị gạt cả. Với vua Tây Ban Nha Philip IV, việc đúc tiền gian — một scandal nội bộ — là một nỗi hổ thẹn về mặt quốc tế và là dấu hiệu suy tàn cho sự giàu có của đế quốc. Cơn lũ những đồng bạc kém phẩm chất ảnh hưởng tất cả, giàu và nghèo. Chủ ngân hàng người Genoa, Gujarati và Trung Hoa phải chịu “cắt tóc”8, thương nhân khắp thế giới phải bỏ mặc những mối giao thương liên văn hóa quý giá, và binh lính khắp lục địa Á-Âu chỉ nhận được một nửa lương ban đầu, thậm chí còn ít hơn.

Hơn gần một thế kỷ trước khi Don Elias đến Potosí, Phó vương Francisco de Toledo đã cách mạng hóa việc sản xuất bạc. Toledo vốn là một quan chức đầy tham vọng đến từ đế quốc Tây Ban Nha — và chính ông là người biến Potosí từ một trại đào mỏ thành một thành phố thực thụ. Quả là một nhiệm vụ vô cùng lớn lao nhưng lại phù hợp với tham vọng của vua Philip II, vị hoàng đế đầu tiên cai trị một đế quốc nơi mặt trời chẳng bao giờ lặn. Toledo đến Potosí vào 1572, nóng lòng biến nó thành động cơ thương mại và chiến tranh của đế quốc.

Đến 1575, vị phó vương đã tổ chức một cuộc tuyển lao động quân dịch quy mô lớn, mở đầu chiến dịch xây dựng cối xay gió “công nghệ cao” và giám sát xây dựng một mạng lưới những đập và kênh nước để cung cấp nguồn thủy lực quanh năm cho Biệt thự Hoàng gia tại vùng thượng dãy Andes, vào đỉnh điểm của Kỷ Băng hà nhỏ. Toledo cũng trông coi việc xây dựng xưởng đúc tiền Potosí với những người nô lệ Châu Phi làm việc suốt ngày đêm. Mọi người bắt đầu tích trữ những đồng bạc đầu tiên, vì chúng có lượng bạc cao hơn mức cần thiết và cũng nặng hơn.

Thành công của Toledo đến với một cái giá cắt cổ. Nhờ những “cải cách” của ngài phó vương, hàng trăm nghìn người dân Andes trở thành dân tị nạn (những người còn sống), và trong cuộc tìm gỗ và nhiên liệu của thực dân, hàng trăm dặm đất đồi núi đã trở nên trơ trụi. Việc ứng dụng công nghệ mới, pha trộn với thủy ngân, được đưa đến từ Mexico theo lệnh của ngài phó vương đã làm đục màu không khí cũng như sông suối. Xưởng nấu kim loại của thành phố nhả ra những khói chì và kẽm, đảm bảo rằng con dân mình sống mãi trong cơn bệnh tật.

Thành phố phát triển thì mối nguy môi trường cũng lan rộng, và đi kèm bệnh tật là những mâu thuẫn xã hội đẫm máu, du đãng, buôn người, bài bạc, tham nhũng chính trị và phạm pháp nói chung. Cứ vài thập kỷ bệnh dịch lại càn quét, cuốn đi theo những người dễ tổn thương nhất. Người đương thời đã làm gì với sự hỗn loạn và vô pháp này? Làm sao họ có thể sống ở một nơi tàn ác và độc hại đến thế? Ta có thể gọi đó là “Nghịch lý Deadwood”9 — phồn vinh đem lại điều xấu xa nhất trong lòng người nhưng cũng đem lại những hành vi gây sửng sốt của sự hào phóng. Dù sao đi nữa, chính sự rộng lượng và tính mộ đạo phóng đãng của thành phố này đã đưa Don Elias từ Baghdad xa xôi đến Potosí.

Nhà Habsburgs đã tìm ra công thức ma thuật, biến bạc kim hóa thành đá.

Những vị vua Tây Ban Nha đến từ nhà Habsburg chẳng mấy bận lòng đến thảm họa môi trường và xã hội của Potosí. Bạc Potosí với họ là một cơn nghiện: chết người và không thể tránh khỏi. Trong hơn một thế kỷ, ngọn núi Cerro Rico đã tạo nên một tổ hợp công nghiệp – quân sự toàn cầu đầu tiên trên thế giới, cung cấp cho Tây Ban Nha phương tiện để tiến hành chiến tranh kéo dài hàng thập kỷ trên hàng tá mặt trận — đất liền lẫn trên biển. Không ai khác có khả năng tương tự mà để thua cuộc được.

Dòng chảy ổn định của bạc Potosí — hay, đúng hơn, là lời hứa của tương lai — đã cho phép những giấc mơ hão huyền của nhà Habsburgs Tây Ban Nha trở nên khả thi. Và thật đột ngột, mọi chuyện kết thúc. Trước cả khi vụ đúc tiền gian của những năm 1640 xảy ra, làm ngai vàng phá sản thì lượng lớn bạc Potosí đã trượt đi mất, bị bòn rút bởi đồng minh và kẻ thù: ngân hàng ngoại quốc, bọn buôn lậu, hải tặc. Đồng thời, sự dồi dào của bạc đã kìm hãm các bộ phận khác trong nền kinh tế nội bộ của Castile. Có kẻ đùa rằng nhà Habsburgs đã khám phá ra công thức kỳ diệu, biến bạc thành đá.

Sự phát đạt của Potosí vĩ đại, nguồn gốc của rối loạn giá cả, khủng hoảng tài chính và các dự án xây dựng tốn kém trên khắp châu Âu, đã góp phần lớn trong việc thúc đẩy sự mở rộng thương mại và bành trướng đế quốc ở châu Á. Trong suốt thế kỷ 17, các thương gia-thực dân Hà Lan, Anh và Pháp, theo đó là một số người Ý và Scandinavia gan dạ, đã chạy đua với nhau và với người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha để có một chỗ ngồi tại chiếc bàn ăn châu Á rộng lớn. Tất cả những gì châu Á muốn, ngoài những lời khuyên về thiết kế súng, là bạc. Người châu Âu chỉ đạo hoặc tham gia vào một số hoạt động giao thương xuyên suốt Châu Á cũng như bành trướng đế quốc nhưng chỉ là phần ít.

Người ta thường quên mất hàng ngàn thương nhân châu Á, châu Phi và chủ ngân hàng có trụ sở tại Mombasa10, Mocha11, Mosul, Gujarat12, Aceh13, Makassar14, Canton15 và nhiều thành phố cảng khác do châu Âu kiểm soát, bao gồm Goa16, Batavia17, Madras18, Macau và Manila. Vào thế kỷ 17, những “thương nhân nông thôn” này, theo cách gọi của người châu Âu, đã chuyển đến và cho vay nhiều bạc Potosí hơn tất cả những người châu Âu cộng lại. Chỉ riêng các cộng đồng thương nhân Hoa Kiều ở Đông Nam Á thôi đã kiểm soát một phần lớn hoạt động kinh doanh toàn cầu này.

Các hoàng đế châu Á lại là một vấn đề khác. Các vị vua Mughal19 như Akbar và Shah Jahān, hoặc các Shah (vua) của nhà Safavid như Abbās I và II, hoặc các Sultan (vua) như Murad III và IV của Đế quốc Ottoman, cai trị các nước chư hầu với quy mô và sự đa dạng mà đế chế của người Iberia20 chẳng thể nào sánh nổi. Tham vọng của Bắc Âu và Hà Lan, mặc dù vậy, đã bị bỏ xa. Cũng giống như nhà Habsburgs Tây Ban Nha bắt đầu chống lại người Pháp và người Anh, các quốc vương ‘thuốc súng’ của Trung Đông và Nam Á đã đánh chiếm các vương quốc và công quốc vệ tinh21, đẩy lên một mức độ khác nhờ có bạc Potosí.

Còn Trung Quốc thì sao? Khi tin về vụ việc đúc tiền gian Potosí lan xa thì nhà Minh sụp đổ. Điểm chuyển tiếp chính là năm 1644, nhưng nhà Thanh không chiếm lấy quyền kiểm soát ngay lập tức. Cả nhà Thanh và Minh đều chi tiêu ồ ạt trong khi nền kinh tế Trung Quốc điêu đứng vì chiến tranh và nạn đói. Con dân dưới thời Minh tranh giành từng mảnh bạc để xua đuổi quân lính xâm lược hoặc để mua tự do. Ngay cả một đồng peso méo mó cũng là một món quà trời ban.


Khi Don Elias đến vào những năm 1670, Potosí đã không còn ở thời kỳ hoàng kim. Nhưng vẫn không thể phủ nhận rằng đây là một thành phố toàn cầu, một địa điểm đầy đau khổ nhưng cũng chứa nhiều điều phi thường, một nơi trưng bày sự đổi mới công nghệ và sự tinh tế trong văn hóa. Trong những năm 1970, những người ủng hộ học thuyết phụ thuộc22, nổi tiếng nhất là Eduardo Galeano, tác giả cuốn Open Veins of Latin America (tạm dịch: Những Tĩnh mạch Bị Rạch của Mỹ Latinh; 1971), coi Potosí là điển hình bi thảm cho sự kém phát triển của thế giới thứ ba, một vùng ngoại vi trống rỗng. Tuy nhiên vào thời hoàng kim, Potosí đã từng là một thủ phủ mang danh tiếng lẫy lừng. Sách hướng dẫn năm 1640 của Alvaro Alonso Barba, nhà luyện kim vĩ đại của Potosí, đã được dịch và tái bản trong nhiều thế kỷ. Nhiều họa sĩ, nhà thơ và nhà viết kịch đã xem thành phố là nhà. Trong những thập kỷ trước vụ lừa đảo tiền bạc, người dân Potosí đã thách thức nhà vua, tuyên bố rằng ông (và thế giới nói chung) cần họ hơn là ngược lại.

Cái kết dành cho Potosí không phải là cú bùng nổ ngoạn mục mà là sự suy tàn không thể cứu vãn. Việc giảm thuế và áp dụng chế độ lao động khắc nghiệt đã nâng sản lượng bạc vào cuối thế kỷ 18, nhưng hầm mỏ thì sâu và thủy ngân lại đắt đỏ. Việc khắc phục công nghệ cũng chẳng có hiệu quả. Simón Bolívar23 đặt chân đến một Potosí thảm bại nhưng tưng bừng vào năm 1825, dù vậy, các nhà tư bản Anh — bám sát gót của Người giải phóng (tên gọi khác của Simón Bolívar) — không thể nào hồi sinh các khu mỏ. Nhờ có các doanh nhân địa phương cũng như các thợ mỏ và thợ luyện bạc quy mô nhỏ, nhiều người trong số họ là người bản địa, đã giữ cho Potosí tồn tại đến cuối thế kỷ 19 bằng cách sử dụng các công nghệ cổ xưa nhưng đáng tin cậy, bao gồm cả các phương pháp của Barba24.

Vào thời điểm mà nhà sử học người Mỹ Hiram Bingham đến thăm nơi từng là Biệt thự Hoàng gia vào năm 1909, Potosí chỉ còn chưa đến 10% dân số so với ba thế kỷ trước. Là tiền thân thuộc địa cho việc “khám phá” ra Machu Picchu năm 1911 của Bingham, Biệt thự Hoàng gia cổ kính mang lại hình bóng của một bóng ma câm lặng, không phải là một thị trấn ma điển hình của Hoa Kỳ mà là một bài học hiện vật “siêu cỡ” trong tham vọng bành trướng toàn cầu của Công giáo Tây Ban Nha. Vào lúc này đây, cơn sốt khoáng sản đã giúp tạo dựng nên các thành phố như San Francisco và Johannesburg, nhưng không có gì có thể sánh với sự táo bạo tuyệt đối với Biệt thự Hoàng gia Potosí, một đô thị khai thác mỏ thời trung cổ nằm trên dãy Andes của Nam Mỹ.

Ngày nay, gần 500 năm sau khi được phát hiện, Cerro Rico của Potosí tiếp tục cung cấp cho thế giới kim loại thô, một chút bạc và thiếc, nhưng chủ yếu là chì và kẽm. Quặng đã qua bán xử lý đi qua thị trấn, băng qua các ngọn núi và Altiplano25, đến các nhà máy tính chế ở Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Nhật Bản. Thành phố đã phát triển đáng kể trong những thập kỷ gần đây và hiện đã vượt qua dân số thời thuộc địa (cùng nguồn cung cấp nước đang bị vắt kiệt). Potosí đã hoàn thành vòng tuần hoàn hay bị mắc kẹt vết lún xưa? Liệu việc bán bùn kim loại cho các nhà sản xuất châu Á có mang lại lợi ích nhiều hơn cho người dân so với những gì những người Tây Ban Nha, Anh hay Yankees ham bạc đã làm không?

Potosí vẫn là một thành phố kết nối toàn cầu, một bánh răng trong nền kinh tế thế giới, một nam châm thu hút người di cư trong khu vực, một không gian cho sự tự tái tạo. Tuy nhiên, vào thời kỳ hoàng kim của nhà Habsburg, Biệt thự Hoàng gia Potosí nổi tiếng không chỉ vì tiền thưởng khoáng sản mà còn vì sản phẩm nghệ thuật, sức mạnh chính trị, lòng mộ đạo của nó. Bất chấp những rắc rối riêng của mình, cư dân của thành phố đã cho Don Elias một gia sản nhỏ bằng bạc để tài trợ cho dự án kỳ lạ của ông ta ở ‘Babylon’. Potosí cũng nổi tiếng về ô nhiễm, nỗi kinh hoàng của người lao động quanh năm suốt tháng, bạo lực thấm đẫm, sự tham nhũng. Potosí là một ngọn núi bạc đã thay đổi thế giới ngay cả khi thế giới thay đổi nó. Sau 5 thế kỷ toàn cầu hóa và khai thác, chúng ta có thể nhìn lại lịch sử của thành phố độc đáo này và tự hỏi “đáng một Potosí”26 có nghĩa là gì.


  1. Công giáo Chaldea thuộc các giáo hội Công giáo Đông phương, và là của người Kitô hữu Iraq. Nhóm này phần lớn tập trung ở thủ đô Baghdag với nghi thức phụng vụ riêng gọi là Chaldean Rite hay còn gọi là East Syrian hay Assyro-Chaldean Rite.

  2. Một thành phố ở Iraq.

  3. Nhà Safavid là một triều đại đã cai trị lãnh thổ Iran ngày nay, cùng nhiều vùng phụ cận từ khoảng năm 1501 đến năm 1736. Họ thường hay giao chiến với nhà Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ và người Uzbek.

  4. Yerba mate có nguồn gốc từ Nam Mỹ, phổ biến tại các quốc gia như Argentina, Paraguay, Uruguay và Nam Brazil. Người dân ở các nước này thường sử dụng lá cây để làm trà thảo mộc.

  5. Flemish là một trường phái hội hoạ phổ biến từ thế kỷ 15 – thế kỷ 17 ở vùng Flanders (quận lớn nhất tại phía nam Hà Lan lúc bấy giờ) và những khu vực lân cận như Brabant, Hainaut, Picardy, và Artois. Ba hoạ sĩ nổi tiếng nhất của thời kỳ này là Jan van Eyck, Robert Campin, và Rogier van der Weyden.

  6. Gia tộc Habsburg là một trong những hoàng tộc quyền lực và có ảnh hưởng nhất châu Âu. Họ có vai trò đặc biệt sau khi lên nắm quyền ở trung tâm châu Âu, cai trị nước Áo, Đức và là đế chế La Mã hùng mạnh. Rất nhiều vị vua và nữ hoàng của Áo và Tây Ban Nha đã là thành viên của gia tộc này.

  7. Bernard Madoff (1938 — 2021) đã thành lập quỹ đầu cơ riêng của mình, và vào những năm 1990, tỷ lệ lãi cao mà quỹ đầu cơ Madoff đưa ra đã thu hút được rất nhiều khách hàng. Tuy nhiên, Madoff không hề sử dụng các khoản tiền này để đầu tư chính đáng. Madoff đã lấy tiền của người đầu tư sau để trả cho người đầu tư trước, và cứ như vậy cho đến khi sự việc vỡ lở vào năm 2008. Các nhà đầu tư của Madoff — với số lượng ước tính là gần 40 nghìn người đến từ 136 quốc gia — đã mất hơn 65 tỉ đô-la Mỹ.

  8. “cắt tóc” (haircut) chỉ sự suy giảm về giá trị của một tài sản khi được sử dụng làm thế chấp cho một khoản vay, so với giá trị thị trường ban đầu của nó.

  9. Deadwood là một series phim truyền hình chiếu trên đài HBO từ 2004 đến 2006.

  10. Một thành phố ở Kenya.

  11. Một thành phố ở Yemen.

  12. Một bang của Ấn Độ.

  13. Một tỉnh ở Indonesia.

  14. Makassar là một thành phố ở miền trung Indonesia, thủ phủ của tỉnh Sulawesi Selantan.

  15. Tên gọi khác của Quảng Châu (Trung Quốc).

  16. Một tiểu bang của Ấn Độ.

  17. Trong lịch sử, Batavia là tên gọi cho thủ đô của Đông Ấn Hà Lan. Khu vực này trùng với ranh giới ngày nay của Jakarta, Indonesia.

  18. Tên gọi khác của Chennai, thủ phủ của bang Tamil Nadu, Ấn Độ.

  19. Đế quốc Mughal là đế quốc Hồi giáo có nguồn gốc từ Ba Tư cai trị Tiểu lục địa Ấn Độ và các khu vực lân cận từ thế kỷ 16 đến 19.

  20. Vương quốc Iberia là một chế độ quân chủ lớn mạnh và quyền lực trong Kỷ nguyên Cổ điển (Classical Antiquity, một kỷ nguyên bắt đầu từ thế kỷ thứ 8 TCN cho đến thế kỷ thứ 6 SCN ở Hy Lạp và La Mã).

  21. Một vương quốc vệ tinh được coi là một vương quốc độc lập chính thức trên thế giới, nhưng chịu ảnh hưởng hoặc kiểm soát chính trị, kinh tế và quân sự nặng nề từ một vương quốc khác.

  22. Học thuyết phụ thuộc (Dependency Theory) chỉ ra rằng tài nguyên chảy từ “ngoại vi” (hoặc “rìa”) của những quốc gia nghèo đến “lõi” của những quốc gia giàu có. Điều này làm các quốc gia giàu có trở nên giàu hơn, với cái giá là những quốc gia nghèo thì trở nên nghèo hơn.

  23. Simón Bolívar (tên đầy đủ: Simón José Antonio de la Santísima Trinidad Bolívar y Palacios, 1783 – 1830), là nhà cách mạng nổi tiếng người Venezuela, người lãnh đạo các phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ 19. Ông còn được mệnh danh là Người Giải phóng (tiếng Tây Ban Nha: El Libertador), George Washington của Nam Mỹ. Những cuộc chiến đấu do ông lãnh đạo đã lật đổ sự thống trị của Tây Ban Nha, giành độc lập cho sáu quốc gia ngày nay là: Venezuela, Colombia, Panama, Ecuador, Peru, và Bolivia.

  24. Nhà luyện kim Alvaro Alonso Barba, như đã nhắc ở trên.

  25. Altiplano là một cao nguyên lớn trải dài hơn 900 km từ miền nam Peru đến miền bắc Argentina. Phần nằm trong khu vực này của dãy Andes là phần rộng nhất của dãy núi.

  26. “đáng một Potosí” (valer un Potosí) là một thành ngữ trong tiếng Tây Ban Nha vẫn được sử dụng đến ngày nay. Khi một thứ gì đó “đáng một Potosí” thì đó là một thứ vô cùng quý giá.

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

đọc thêm
Mới nhất